Trong hôn nhân, ly hôn là vấn đề không ai mong muốn. Tuy nhiên, trên thực tế thì số lượng các vụ ly hôn ngày càng tăng nhiều, từ những cặp vợ chồng đăng ký kết hôn được vài tháng đến những cặp vợ chồng sống với nhau hàng chục năm. Khi ly hôn thì người ta bàn cãi rất nhiều về lý do và đa số đều thừa nhận rằng mình đã sai lầm khi kết hôn và cho rằng mình đã bị tổn thất thanh xuân. Do vậy, khi ly hôn thì rất nhiều trường hợp đã yêu cầu vợ/chồng mình bồi thường thanh xuân khi ly hôn. Vậy bồi thường thanh xuân là gì? Có phải bồi thường thanh xuân nếu ly hôn hay không? Trong bài viết này, Luật Hùng Bách sẽ giúp các bạn giải đáp thắc mắc trên và bình luận thêm về các quy định pháp luật khác có liên quan.
Đang xem: Bồi thường tuổi thanh xuân khi ly hôn
Mục lục (Ẩn/Hiện)
Hình ảnh minh họa
Bồi thường thanh xuân là gì?
“Thanh xuân” được mọi người dùng để chỉ quãng thời gian của tuổi trẻ, giai đoạn mà một người còn tự do, chưa bị ràng buộc bởi quan hệ hôn nhân. Nhiều người có quan điểm rằng khi kết hôn thì sẽ phải hi sinh tuổi thanh xuân và chuyển sang cuộc sống nội trợ, con cái và lo cơm – áo – gạo – tiền. Khi cuộc sống hôn nhân hạnh phúc thì mọi người hài lòng về sự thay đổi đó. Tuy nhiên, khi hôn nhân không được như mong muốn, nhiều người đã cảm thấy hối tiếc và khi ly hôn họ yêu cầu bên kia bồi thường thanh xuân cho mình. Thông thường, “thanh xuân” sẽ được người yêu cầu bồi thường quy ra giá trị vật chất cụ thể và tùy thuộc vào từng trường hợp mà giá trị được đưa ra là khác nhau.
Có được bồi thường thanh xuân khi ly hôn không?
Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình thì khi ly hôn, Tòa án sẽ xem xét các vấn đề về quan hệ hôn nhân của hai vợ chồng; chia tài sản chung và xác định nghĩa vụ về các khoản nợ chung; quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Cụ thể như sau:
Điều 55 quy định về thuận tình ly hôn:
“Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn”
Điều 56 quy định về ly hôn theo yêu cầu của một bên:
“1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
3. Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia”
Điều 37 quy định về nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng:
“Vợ chồng có các nghĩa vụ chung về tài sản sau đây:
1. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm;
2. Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình;
3. Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;
4. Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình;
5. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường;
6. Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan”
Điều 59 về nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn có quy định:
“1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.
Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.
2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng
…”
Điều 81 quy định về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn:
“1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
…”
Từ những quy định liên quan đến quyền và nghĩa vụ khi ly hôn mà chúng tôi trích dẫn ở trên thì các bạn có thể thấy rằng không có quy định về việc bồi thường thanh xuân khi ly hôn nên không có căn cứ và cơ sở pháp luật để tòa án có thể giải quyết. Điều đó cũng có nghĩa là khi ly hôn thì vợ hoặc chồng không có nghĩa vụ phải bồi thường về thanh xuân cho bên còn lại.
Ngoài ra, hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng và cấm hành vi cưỡng ép kết hôn cũng là một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật hôn nhân và gia đình hiện hành. Nói cách khác, khi kết hôn thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền ghi nhận ý chí tự nguyện của cả hai bên, các đôi nam nữ khi đăng ký kết hôn phải cam đoan là kết hôn trên tinh thần tự nguyện và không bị ép buộc, tức là tự nguyện chấm dứt quãng thời gian tự do của bản thân, tự nguyện trao “thanh xuân” của bản thân cho người khác. Do vậy, khi ly hôn, để chứng minh được mình đã bị tổn thất về thanh xuân và được Tòa án chấp nhận giải quyết là cực kì khó khăn.
Nếu xét về nghĩa vụ tài chính của một bên đối với bên còn lại sau khi ly hôn thì tại khoản 1 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình 2014 có quy định về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Theo đó, sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, nói cách khác là nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Trong khi đó, cũng tại điều 116 Luật này có quy định về mức cấp dưỡng. Cũng như viêc thỏa thuận về bồi thường thanh xuân khi ly hôn, mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào các yếu tố như thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng. Tuy nhiên, thỏa thuận nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con và thỏa thuận bồi thường thanh xuân khi ly hôn có những điểm khác biệt cơ bản sau
Thứ nhất, thỏa thuận về cấp dưỡng nuôi con được ghi nhận trong bản án/quyết định của Tòa án còn thỏa thuận về bồi thường thanh xuân khi ly hôn thì không được ghi nhận. Thứ hai, đối với thỏa thuận cấp dưỡng nuôi con, nếu không thỏa thuận được thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết. Còn đối với thỏa thuận về bồi thường thanh xuân khi ly hôn, nếu hai bên không thể tự thống nhất thì không thể yêu cầu Tòa án giải quyết.
Thực tế bồi thường thanh xuân khi ly hôn tại tòa án
Trong quá trình giải quyết các vụ án ly hôn tại Tòa án thì có không ít các trường hợp khi ly hôn có yêu cầu vợ/chồng mình bồi thường thanh xuân. Thông thường, những yêu cầu được đưa ra thường là một số tiền cụ thể hoặc một tài sản hữu hình nào đó, ví dụ như nhà cửa, xe cộ, …
Quay trở lại quy định của pháp luật về ly hôn theo yêu cầu của một bên và thuận tình ly hôn, nói một cách dễ hiểu thì ly hôn thuận tình là việc Tòa án công nhận sự thỏa thuận của các bên về việc chấm dứt quan hệ hôn nhân, thỏa thuận việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con. Ly hôn theo yêu cầu của một bên là việc một trong hai bên vợ/chồng yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết quan hệ hôn nhân, tài sản, quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Bạn có thể tham khảo thêm bài viết về thủ tục ly hôn đơn phương và ly hôn thuận tình của chúng tôi để có thể hiểu rõ hơn vấn đề này.
Trong trường hợp ly hôn thuận tình mà bản chất là công nhận sự thỏa thuận của các đương sự thì hai bên có quyền thỏa thuận về việc bồi thường thanh xuân khi ly hôn được tự do thỏa thuận về giá trị bồi thường, phương thức bồi thường và sự thỏa thuận đó không mang tính bắt buộc. Ngoài ra, sự thỏa thuận về bồi thường thanh xuân khi ly hôn đó sẽ không được ghi nhận trong quyết định của Tòa án.
Trong trường hợp ly hôn theo yêu cầu của một bên thì ngoài những vấn đề về quan hệ hôn nhân; yêu cầu phân chia tài sản chung, xác định nghĩa vụ về tài sản; yêu cầu về việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì Tòa án sẽ không thụ lý và giải quyết, trong đó bao gồm cả yêu cầu bồi thường thanh xuân khi ly hôn. Do vậy, nếu có yêu cầu trong đơn khởi kiện ly hôn thì Tòa án sẽ ra thông báo yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện.
Trên thực tế, trong quá trình ly hôn nếu một bên cố ý gây khó khăn cho bên còn lại thì Tòa án cũng hay khuyến khích các đương sự thỏa thuận về bồi thường thanh xuân để vụ án được giải quyết nhanh và đơn giản hơn. Tuy nhiên, điều này cũng dễ dẫn tới hiện tượng tiêu cực là bên bị đơn cố tình không hợp tác và đòi nguyên đơn thỏa thuận về bồi thường thanh xuân khi ly hôn gây khó khăn và phiền toái cho nguyên đơn cũng như việc giải quyết của Tòa án.
Câu hỏi: Chào Luật sư, tôi và vợ tôi kết hôn từ năm 2010, trong quá trình chung sống, chúng tôi có góp mua một căn nhà 1,2 tỉ, có 02 con chung 1 cháu 3 tuổi 1 cháu 5 tuổi. Đến năm 2019 thì chúng tôi có những bất đồng không thể dung hòa và tôi đã gửi đơn ly hôn lên tòa án nhưng cô ấy không đồng ý ly hôn và yêu cầu tôi cấp dưỡng 10 triệu đồng mỗi tháng cho đến khi hai con đủ 18 tuổi và yêu cầu tôi bồi thường thanh xuân khi ly hôn cho cô ấy, giá trị bồi thường là 50 triệu/năm kể từ khi kết hôn đến khi ly hôn thì cô ấy mới chịu ly hôn với tôi. Tôi đồng ý cấp dưỡng cho 2 cháu theo yêu cầu và cho 3 mẹ con căn nhà đã mua nhưng Luật sư cho tôi hỏi tôi có bắt buộc phải bồi thường thanh xuân khi ly hôn cho cô ấy không?
Trả lời: chào bạn, với thắc mắc của bạn thì Luật sư ly hôn có ý kiến giải đáp như sau:
Thứ nhất, về yêu cầu bồi thường thanh xuân khi ly hôn, theo quy định của pháp luật hiện hành, trong trường hợp ly hôn thuận tình, các đương sự có quyền thỏa thuận các vấn đề về quan hệ hôn nhân, tài sản chung, con chung, … không trái với quy định của pháp luật. Có nghĩa là hai vợ chồng bạn có quyền được thỏa thuận về việc bồi thường thanh xuân. Tuy nhiên, sự thỏa thuận đó sẽ không được ghi nhận trong quyết định của Tòa án mà hai bạn sẽ tự thực hiện với nhau. Tự thỏa thuận về bồi thường thanh xuân khi ly hôn là “quyền” của đương sự, có nghĩa là sự thỏa thuận đó là tự nguyện, không bắt buộc.
Thứ hai, nếu bạn không đồng ý với những yêu cầu mà vợ bạn đưa ra thì bạn có thể ly hôn theo yêu cầu của một bên, tại điều 56 Luật hôn nhân và gia đình 2014 có quy định về ly hôn theo yêu cầu của một bên với nội dung cụ thế như sau:
“1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”
Câu hỏi: Thưa Luật sư, chúng tôi kết hôn với nhau năm 2009. Nay do không thể sống được với nhau nữa nên tôi và chồng tôi đã đồng ý đi đến ly hôn. Luật sư có thể tư vấn cho tôi nếu chúng tôi tự thỏa thuận như vậy thì sẽ làm thủ tục ly hôn ở Tòa án như thế nào? Tôi có yêu cầu chồng tôi bồi thường tuổi thanh xuân cho tôi và anh ấy đã đồng ý, vậy Luật sư cho tôi hỏi tôi có thể yêu cầu anh ấy bồi thường bao nhiêu tiền ạ?
Trả lời: Chào bạn, với câu hỏi của bạn, Luật sư ly hôn có thể tư vấn như sau:
Trước tiên, hai vợ chồng bạn đều đồng ý ly hôn và tự nguyện thỏa thuận các vấn đề về tài sản chung, công nợ chung, con chung nên sẽ ly hôn theo thủ tục thuận tình ly hôn. Trình tự, thủ tục thuận tình ly hôn như sau:
Thứ nhất: Chuẩn bị hồ sơ và nộp tại Tòa án nhân dân cấp huyện nơi vợ hoặc chồng đang cư trú. Hồ sơ thuận tình ly hôn bao gồm những loại giấy tờ sau:
Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn (bản chính); Chứng minh thư của hai vợ chồng (bản sao/công chứng); Sổ hộ khẩu của hai vợ chồng (bản sao/công chứng); Giấy khai sinh của các con chung (bản sao/công chứng); Giấy tờ chứng minh tài sản chung; Đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn.
Thứ hai: Nộp lệ phí và thụ lý vụ án:
Sau khi nhận được đầy đủ hồ sơ, trong thời hạn 03 ngày, Chánh án Tòa án sẽ phân công Thẩm phán giải quyết. Nếu hồ sơ đủ điều kiện, Thẩm phán sẽ ra thông báo về nộp lệ phí và trong vòng 05 ngày, hai vợ chồng phải thực hiện xong. Bạn có thể tham khảo án phí ly hôn trong bài viết Án phí ly hôn đơn phương và ly hôn thuận tình mới nhất của chúng tôi.
Thứ ba: Tòa án chuẩn bị xét đơn yêu cầu và mở phiên họp công khai để giải quyết việc yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn:
Thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu là 01 tháng, kể từ ngày thụ lý. Trong thời gian này, tòa án sẽ tiến hành hòa giải theo quy định của pháp luật.
Khi đó, Thẩm phán sẽ tiến hành hòa giải để vợ chồng đoàn tụ, giải thích quyền, nghĩa vụ của vợ chồng, cha mẹ với con, về trách nhiệm cấp dưỡng…
Thứ tư: Ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn:
Trong trường hợp hòa giải thành, vợ chồng sẽ đoàn tụ với nhau thì Tòa án sẽ ra quyết định đình chỉ giải quyết yêu cầu ly hôn của hai người.
Nếu hòa giải không thành, vợ chồng vẫn muốn ly hôn thì Tòa án ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn. Quan hệ hôn nhân của hai vợ chồng chấm dứt kể từ ngày quyết định công nhận thuận tình ly hôn có hiệu lực pháp luật.
Thứ hai, về giá trị bồi thường thanh xuân khi ly hôn: hiện nay pháp luật không quy định bồi thường thanh xuân khi ly hôn là nghĩa vụ của vợ hoặc chồng, điều đó cũng có nghĩa là không có một định mức cố định nào khi yêu cầu bồi thường thanh xuân khi ly hôn. Do đó, nếu chồng bạn đã đồng ý bồi thường thanh xuân khi ly hôn cho bạn thì hai vợ chồng có thể tự thỏa thuận bồi thường bằng tài sản gì, bồi thường với giá trị bao nhiêu và bằng hình thức nào, miễn là giá trị bạn yêu cầu được chồng bạn đồng ý.